phân loại và chức năng của Bạch cầu
Bạch cầu là những tế
bào máu có tác dụng bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh.
Dựa vào hình dáng, cấu
trúc và cách bắt màu phẩm nhuộm, người ta chia bạch cầu ra làm hai nhóm chính
là bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt.
Chứa những hạt trong
bào tương mà có thể thấy dưới kính hiển vi quang học. Tuỳ theo cách bắt màu
phẩm nhuộm của các hạt mà chúng có tên là bạch cầu hạt trung tính, ưa acid, ưa
kiềm. Ngoài ra, do nhân của các bạch cầu hạt này có nhiều thuỳ nên chúng còn có
tên là bạch cầu đa nhân.
Trong bào tương không
có các hạt mà có thể thấy được dưới kính hiển vi quang học do kích thước chúng
nhỏ và bắt màu phẩm nhuộm kém. Có hai loại bạch cầu không hạt là bạch cầu
lympho và bạch cầu mono. Nhân của các bạch cầu không hạt này không chia thuỳ
nên chúng còn có tên là bạch cầu đơn nhân.
2.1. Bạch cầu hạt và bạch cầu mono
Toàn bộ quá trình sinh
sản và biệt hoá tạo nên các loại bạch cầu hạt và bạch cầu mono diễn ra trong
tuỷ xương. Chúng được dự trữ sẵn ở tuỷ xương, khi nào cơ thể cần đến, chúng sẽ
được đưa vào máu lưu thông.
Bạch cầu hạt sau khi
rời tuỷ xương thì lưu hành trong máu khoảng 4-8 giờ rồi xuyên mạch vào tổ chức,
tồn tại thêm khoảng 4-5 ngày. Khi bạch cầu thực hiện chức năng bảo vệ cơ thể
của minh, chẳng hạn chống nhiễm trùng, thì nó sẽ chết sớm hơn.
Bạch cầu mono cũng có
thời gian lưu hành trong máu ngắn, khoảng 10-20 giờ. Sau đó sẽ xuyên mạch vào
tổ chức. Tại tổ chức chúng sẽ tăng kích thước và trở thành đại thực bào tổ
chức. Ở dạng này chúng có thể sống hàng tháng, thậm chí hàng năm.
Các tế bào lympho đều
có chung nguồn gốc từ trong bào thai là tế bào gốc tạo máu đa năng. Các tế bào
này sẽ biệt hoá thành tế bào gốc biệt hoá của dòng lympho để tạo ra tế bào
lympho. Trước khi trở thành các tế bào lympho trưởng thành khu trú ở các tổ
chức bạch huyết, chúng được “xử lý” tại những nơi khác nhau trong cơ thể. Một
số di trú đến tuyến ức để được “xử lý” ở đó và được gọi là lympho T. Một số
khác được “xử lý” ở gan trong những tháng giữa của thai kỳ, ở tuỷ xương trong
những tháng sau của thai kỳ và sau khi sinh, chúng được gọi là lympho B.
Từ các tổ chức bạch huyết, bạch cầu lympho vào
hệ tuần hoàn liên tục theo dòng bạch huyết. Sau vài giờ, chúng xuyên mạch vào
tổ chức rồi vào dòng bạch huyết để trở về tổ chức bạch huyết hoặc vào máu lần
nữa rồi lần nữa ... Các bạch cầu lympho có thời gian sống hàng tuần, hàng tháng
hoặc thậm chí hàng năm tuỳ thuộc nhu cầu của cơ thể.
Chức năng chung của bạch cầu là chống lại các
tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể. Nhìn chung, chúng có các đặc tính sau để thích
hợp với chức năng này:
- Xuyên mạch: tự biến đổi hình dạng để
chui qua giữa các tế bào nội mô mạch máu vào tổ chức xung quanh.
- Vận động: theo kiểu a-míp (bằng
chân giả) để đến các tổ chức cần nó.
- Hoá ứng động: bạch cầu bị hấp dẫn đến
vị trí tổn thương khi có các hoá chất được giải phóng ra bởi tế bào tổn thương
hoặc vi khuẩn, và khi có các phức hợp miễn dịch.
- Thực bào: bắt các vật lạ đưa vào trong
bào tương rồi tiêu hoá chúng.
Tuy nhiên không phải loại bạch cầu nào cũng có đầy đủ các đặc
tính trên.
3.1. Chức năng của bạch cầu hạt trung tính
Bạch cầu hạt trung
tính là hàng rào của cơ thể có khả năng chống lại vi khuẩn sinh mủ. Chúng rất
vận động và thực bào tích cực.
Bạch cầu trung tính có
thể tiêu hoá, huỷ hoại nhiều loại vi khuẩn, những thành phần nhỏ, và fibrin. Hầu
hết các hạt bào tương của chúng là các tiêu thể chứa enzym thuỷ phân. Các hạt
khác chứa các protein kháng khuẩn. Ngoài ra, bạch cầu hạt trung tính còn chứa
các chất oxy hoá mạnh có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn.
Bạch cầu hạt trung
tính là bạch cầu đầu tiên đến vị trí vi khuẩn xâm nhập với số lượng lớn. Trong
quá trình thực bào vi khuẩn, nhiều bạch cầu trung tính bị chết và tạo thành mủ
tại vị trí tổn thương. Mỗi bạch cầu này thực bào tối đa khoảng 5-20 vi khuẩn.
3.2. Chức năng của bạch cầu hạt ưa kiềm
Bạch cầu hạt ưa kiềm
rất giống một loại tế bào khác ở trong tổ chức bên ngoài mao mạch gọi là dưỡng
bào (mast cell).
Bạch cầu hạt ưa kiềm
và dưỡng bào có thể phóng thích heparin ngăn cản quá trình đông máu và thúc đẩy
sự vận chuyển mỡ từ máu sau bữa ăn nhiều chất béo.
Các tế bào này đóng
vai trò quan trọng trong phản ứng dị ứng. Do các kháng thể gây phản ứng dị ứng
(loại IgE) có khuynh hướng đến gắn trên bề mặt dưỡng bào và bạch cầu ưa kiềm.
Khi có sự kết hợp giữa kháng thể này với dị ứng nguyên, dưỡng bào và bạch cầu
ưa kiềm sẽ vỡ ra và giải phóng histamine, cũng như bradykinin, serotonin, chất
phản ứng chậm của sốc phản vệ (slow-reacting substance of anaphylaxis),
enzym tiêu protein....tạo nên bệnh cảnh điển hình của dị ứng.
3.3. Chức năng bạch cầu hạt ưa acid
Bạch cầu hạt ưa acid ít vận động hơn bạch cầu trung tính và thực
bào cũng ít tích cực hơn, chúng không thực bào vi khuẩn.
Chức năng đầu tiên của
bạch cầu hạt ưa acid là khử độc protein lạ nhờ các enzym đặc biệt trong hạt bào
tương. Bạch cầu ưa acid thường tập trung nhiều ở niêm mạc đường hô hấp, tiêu
hoá, tiết niệu-sinh dục để ngăn chặn các tác nhân lạ xâm nhập cơ thể.
Chúng có thể tiết ra
các chất độc đối với ký sinh trùng. Đặc biệt là các loại sán máng (schistosomum)
hoặc giun xoắn (trichinella).
Bạch cầu hạt ưa acid
còn tập trung ở nơi có phản ứng dị ứng xảy ra, chúng tiết ra các enzym để chống
lại tác dụng của histamine và các chất trung gian khác trong phản ứng dị ứng.
Ngoài ra, chúng còn có khả năng thực bào các phức hợp kháng nguyên-kháng thể.
Vì vậy, chúng ngăn cản không cho tiến trình viêm lan rộng.
3.4. Chức năng bạch cầu mono - đại thực bào
Các bạch cầu mono chưa
thực sự trưởng thành, khả năng tiêu diệt tác nhân nhiễm khuẩn của chúng còn
kém. Nhưng khi vào trong tổ chức, trở thành đại thực bào với kích thước lớn hơn
và nhiều tiêu thể trong bào tương, chúng có khả năng chống tác nhân gây bệnh
rất mãnh liệt. Khả năng thực bào của chúng mạnh hơn bạch cầu hạt trung tính
nhiều, chúng có thể thực bào khoảng 100 vi khuẩn. Đại thực bào còn có thể thực
bào các thành phần lớn hơn như hồng cầu chết, ký sinh trùng sốt rét. Ngoài ra,
chúng còn có lipase giúp tiêu hoá các vi khuẩn có vỏ bọc lipid dày. Sau khi
thực bào, chúng có thể đẩy các sản phẩm ra và thường sống sót vài tháng.
Các đại thực bào còn
có chức năng trình diện kháng nguyên cho các tế bào có thẩm quyền miễn dịch.
3.5. Chức năng bạch cầu lympho
Có 3 loại tế bào lympho là:
3.5.1. Tế bào diệt tự nhiên (NK: natural killer)
Các tế bào NK hiện diện ở lách, hạch, tuỷ xương đỏ và máu. Chúng
thường tấn công các vi sinh vật gây bệnh và một số tế bào khối u tiên phát. Cơ
chế tác dụng của chúng chưa được rõ ràng.
Bạch cầu lympho B bảo
vệ cơ thể bằng đáp ứng miễn dịch dịch thể (qua trung gian kháng thể). Nó chống
lại các loại vi khuẩn và một số virus.
Khi có các vi khuẩn
xuất hiện, lympho B nhận diện kháng nguyên tương ứng và được hoạt hoá. Khi đó
nó có khả năng phân bào và biệt hoá thành tương bào (plasma cell). Các
tương bào này sẽ sản xuất kháng thể chống lại vi khuẩn đã xâm nhập. Kháng thểï
tiêu diệt các vi khuẩn hoặc bất hoạt độc tố của chúng.
Một số lympho B được
sinh ra ở trên không trở thành tương bào mà trở thành lympho B nhớ sẵn sàng đáp
ứng nhanh và mạnh khi có cùng loại vi khuẩn xâm nhập lần sau.
Bạch cầu lympho T là tế bào tham gia đáp ứng miễn dịch qua trung
gian tế bào. Lympho T có khả năng chống lại các tác nhân như virus, nấm, tế bào
mảnh ghép, tế bào ung thư và vài loại vi khuẩn. Khi có các tác nhân đó xuất
hiện trong cơ thể, các lympho T sẽ nhận diện kháng nguyên đặc hiệu với nó và
được hoạt hoá. Sau đó chúng trở nên lớn hơn, sinh sản tạo nên hàng ngàn lympho
T có thể nhận diện kháng nguyên xâm nhập này. Có 3 loại lympho T chính:
- T giúp đỡ (Th: helper): kích
thích sự phát triển và sinh sản của các lympho T độc, T ức chế. Th còn kích thích sự
phát triển và biệt hoá lympho B thành tương bào. Ngoài ra, Th còn tiết các chất
làm tăng cường hoạt động bạch cầu trung tính và đại thực bào.
- T độc (Tc: cytotoxic): tiêu diệt
trực tiếp các tế bào bị nhiễm tương ứng. Tc cũng tiết các chất khuếch đại khả năng
thực bào của đại thực bào.
- T ức chế (Ts: suppressor): phát
triển chậm hơn, nó có tác dụng ức chế lympho Tc và Th làm cho đáp ứng miễn dịch
không phát triển quá mức.
Một số lympho T trở thành tế bào T nhớ có khả năng khởi phát một
đáp ứng miễn dịch tương tự khi có cùng loại tác nhân gây bệnh (kháng nguyên) xâm
nhập nhưng ở mức độ nhanh, mạnh hơn nhiều, gọi là đáp ứng miễn dịch lần hai.