Lịch Sử
Edward Jenner được công nhận là
người đầu tiên dùng vắc-xin để ngừa bệnh cho con người ngay từ khi người
ta còn chưa biết bản chất của các tác nhân gây bệnh (năm 1796). Louis
Pasteur với các công trình nghiên cứu về vi sinh học và miễn dịch học đã
mở đường cho những kiến thức hiện đại về vắc-xin.
Truyền Thuyết
Vào thế kỷ thứ nhất trước
Công nguyên, vua Mithridate VI mỗi ngày đều uống một lượng nhỏ độc chất
cho cơ thể quen dần nhằm đương đầu với nguy cơ bị ám sát. Chuyện kể rằng
cách này đã tỏ ra hiệu quả vì về sau, khi Mithridate thất trận và tự
sát, liều thuốc độc ông ta uống vào chẳng có ép phê gì.
Ở Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ
thứ 10, các thầy lang Đạo giáo đã bí mật dùng một kỹ thuật phòng bệnh
đậu mùa. Đậu mùa là chứng bệnh hiểm nghèo, nếu không giết chết bệnh nhân
thì nó cũng để lại những vết sẹo rỗ trên mặt. Các thầy lang đã lấy vẩy
sẹo của người bị bệnh(chứa mầm bệnh), cho vào một chiếc hộp kín rồi giữ ở
nhiệt độ nhất định trong một thời gian để giảm độc tính, sau đó nghiền
nhỏ thổi vào mũi của người khỏe chưa từng mắc bệnh đậu mùa để ngừa bệnh.
Một phương pháp tương tự cũng được dùng ở Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 18.
Khám phá khoa học
Sau thí nghiệm thành công của
Jenner, phương pháp chủng đậu được triển khai rộng rãi. Tính đến năm
1801, ở Anh đã có trên 100.000 người được chủng. Trong ảnh: áp phích
thông báo ghi tên chủng ngừa.
Bỏ qua những huyền thoại lẻ
loi và không chắc chắn trên, vắc-xin đầu tiên gắn với tên tuổi của
Edward Jenner, một bác sĩ người Anh. Năm 1796, châu Âu đang có dịch đậu
mùa, Jenner đã thực hiện thành công thử nghiệm vắc-xin ngừa căn bệnh
này. Kinh nghiệm dân gian cho thấy những nông dân vắt sữa bò có thể bị
lây bệnh đậu bò, nhưng sau khi khỏi bệnh, họ trở nên miễn nhiễm đối với
bệnh đậu mùa. Dựa vào đó, Jenner chiết lấy dịch từ các vết đậu bò trên
cánh tay của cô bệnh nhân Sarah Nelmes rồi cấy dịch này vào cánh tay của
cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Sau đó Phipps đã
có những triệu chứng của bệnh đậu bò. 48 ngày sau, Phipps khỏi hẳn bệnh
đậu bò, Jenner liền tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa cho Phipps,
nhưng Phipps không hề mắc căn bệnh này. Cách làm của Jenner xét theo các
tiêu chuẩn y đức ngày nay thật không ổn, nhưng rõ ràng đó là một hành
động có tính khai phá: đứa trẻ được chủng ngừa đã đề kháng được bệnh.
Thời của Jenner, các virus
vẫn chưa được khám phá, còn vi khuẩn tuy đã được tìm ra nhưng vai trò
gây bệnh của chúng chưa được biết. Thời điểm 1798, khi Jener công bố kết
quả thí nghiệm của mình, người ta chỉ hình dung là có các "mầm bệnh"
gây nên sự truyền nhiễm.
Tám mươi năm sau, Louis Pasteur
nghiên cứu bệnh tả khi dịch tả đang tàn sát đàn gà. Ông cấy các vi khuẩn
tả trong phòng thí nghiệm rồi đem tiêm cho gà: những con bị tiêm chết
sạch. Mùa hè năm 1878, ông chuẩn bị một bình dung dịch nuôi cấy vi khuẩn
dạng huyền phù, rồi để đó, đi nghỉ mát. Khi trở về, ông lại trích lấy
huyền phù đó đem tiêm cho gà. Lần này thì bầy gà chỉ bị bệnh nhẹ rồi cả
đàn cùng khỏe lại. Pasteur hiểu ra rằng khi ông đi vắng, đám vi khuẩn
trong huyền phù đó đã bị biến tính, suy yếu đi. Ông bèn lấy vi khuẩn tả
(bình thường) đem tiêm cho những con gà vừa trải qua thí nghiệm trên và
những con chưa hề bị chích vi khuẩn. Kết quả là những con nào từng được
chích vi khuẩn (biến tính) thì có khả năng đề kháng lại mầm bệnh, bọn
còn lại chết hết. Qua đó, Pasteur đã xác nhận các giả thuyết của Jenner
và mở đường cho khoa miễn dịch học hiện đại.
Từ đó, chủng ngừa đã đẩy
lùi nhiều bệnh: triệt tiêu bệnh đậu mùa trên toàn cầu, thanh toán gần
như hoàn toàn bệnh bại liệt, giảm đáng kể các bệnh sởi, bạch hầu, ho gà,
bệnh ban đào, thủy đậu, quai bị, thương hàn và uốn ván v.v. Nguyên tắc
vẫn không có gì thay đổi: gây miễn dịch bằng một vi khuẩn hoặc virus
giảm độc lực, hoặc với một proteinđặc hiệu có tính kháng nguyên để gây
ra một đáp ứng miễn dịch, rồi tạo một trí nhớ miễn dịch đặc hiệu, tạo ra
hiệu quả đề kháng cho cơ thể về sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập với
đầy đủ độc tính.
Người ta còn hướng tới triển vọng dùng vắc-xin để điều trị một số bệnh còn nan y như ung thư, AIDS v.v.
Tuy nhiên, nhiều bệnh vẫn
còn đang thách thức con người, chưa có vắc-xin nào đủ hiệu quả để ngăn
ngừa. Trong đó phải kể nhiều bệnh do ký sinh trùng (thí dụ sốt rét,
giun, sán), vi khuẩn (lao), virus (cúm, sốt xuất huyết, AIDS v.v.). Một
số lý do có thể là các tác nhân gây bệnh biến đổi thường xuyên khiến cho
miễn dịch không còn hữu hiệu hoặc thậm chí tấn công ngay vào hệ miễn
dịch như trường hợp của HIV v.v. (Đã có lúc bệnh lao được đẩy lùi bằng
nhiều biện pháp phối hợp (thuốc, vắc-xin và các biện pháp phòng ngừa
khác), nhưng sự xuất hiện của AIDS đã làm cho dịch lao có dịp bùng phát,
nhất là tại các nước đang phát triển.)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét